Thứ Sáu, 29 tháng 12, 2017

Những điều cần biết trước khi thuê văn phòng


Cần phải biết ban quản lý tòa nhà là những ai? Một tòa nhà có ban quản lý chuyên nghiệp, hỗ trợ tận tình thì chắc chắn tòa nhà đó cũng chuyên nghiệp.

_ Về vị trí: Nên chọn văn phòng làm việc nằm trong khu vực sạch sẽ, ánh sáng tốt, cảnh quan đẹp, lưu thông thuận tiện, không kẹt xe. Cần phải cân nhắc để có văn phòng giá ổn nhưng đảm bảo thời gian để nhân viên di chuyển tới công ty không quá dài, chi phí ăn uống, giải trí trong khu vực hợp lý.


Văn phòng cho thuê điển hình.

_ Quy mô tòa nhà: Cần chú ý quy mô cơ sở hạ tầng của tòa nhà trước khi quyết định thuê, một tòa nhà tốt sẽ đảm bảo có đầy đủ hệ thống: thang máy, điều hòa, thiết bị PCCC, máy phát điện, mạng internet…, luôn trong tình trạng tốt, và khắc phục nhanh chóng nếu có sự cố, đảm bảo không gây trở ngại cho công việc của bạn.

_ Chỗ để xe: Đây là vấn đề nan giải khi thuê các tòa nhà trong khu vực trung tâm thành phố. Hầu hết ban quản lý tòa nhà sẽ hạn chế số lượng xe gửi trong tòa nhà vì sức chứa hầm giữ xe có hạn. Chính vì vậy, bạn cần tìm hiểu khu vực xung quanh để tìm giải pháp cho nhân viên công ty mình.

_ Ban quản lý: Cần phải biết ban quản lý tòa nhà là những ai? Một tòa nhà có ban quản lý chuyên nghiệp, hỗ trợ tận tình thì chắc chắn tòa nhà đó cũng chuyên nghiệp.

_ Phí quản lý và thuế VAT: Bạn cần tìm hiểu kỹ trong giá thuê đã bao gồm phí quản lý và thuế VAT chưa? Khi làm việc với Kim Quang, nhân viên kinh doanh sẽ ghi rõ ràng các loại chi phí này trong bảng báo giá.

_ Phụ phí làm việc ngoài giờ: Có nhiều tòa nhà không thu thêm phí ngoài giờ kể cả làm thêm vào thứ 7, chủ nhật. Tuy nhiên cũng có nhiều tòa nhà tính phí ngoài giờ hoặc không cho làm thêm giờ đặc biệt là các tòa nhà hạng A, B.

_ Giá thuê văn phòng và độ trượt giá thuê văn phòng: Đa số chủ đầu tư niêm yết giá thuê văn phòng bằng USD, và thời hạn thuê hợp đồng thường là 2-3 năm nên sẽ có độ trượt giá thuê tăng hoặc giảm 10%, bạn cần thỏa thuận để fix một con số nhất định.

_ Hướng văn phòng: 80% các công ty Việt Nam và một số các nước Châu Á đều duy tâm chọn hướng văn phòng hợp với tuổi của người đứng pháp lý công ty, nếu công ty bạn quan tâm thì có thể báo với nhân viên môi giới chú ý thêm khi tư vấn lựa chọn văn phòng.

Hy vọng rằng những thông tin trên sẽ giúp ích cho quý doanh nghiệp.

(Địa Ốc Kim Quang nguồn tổng hợp).

Lễ hội truyền thống trong đời sống của người việt

Lễ hội truyền thống là hiện tượng lịch sử, hiện tượng văn hóa có mặt ở Việt Nam từ lâu đời và có vai trò không nhỏ trong đời sống xã hội. Những năm gần đây, trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của nước ta, văn hóa truyền thống nói chung, trong đó có lễ hội truyền thống đã được phục hồi và phát huy, làm phong phú hơn đời sống văn hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, tốt đẹp trong phục hồi và phát huy lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội đương đại, thì cũng không ít các vấn đề nảy sinh khiến xã hội cần phải nhìn nhận lại và tìm cách khắc phục để những mặt tinh hoa của lễ hội cổ truyền được đẩy mạnh và phát huy, khắc phục dần các hạn chế, tiêu cực. Và bao giờ cũng thế, mọi hành động của con người đều bắt đầu từ nhận thức, chỉ khi chúng ta có nhận thức đúng về lễ hội cổ truyền thì việc phục hồi và phát huy nó trong đời sống xã hội đương đại mới mang lại hiệu quả mong muốn.

1. Nhận diện lễ hội truyền thống 


Lễ hội Chùa Hương

Lễ hội là một trong những “hoạt động văn hoá cao”, “hoạt động văn hoá nổi trội” trong đời sống con người. Hoạt động lễ hội là hoạt động của cộng đồng hướng tới “xử lý” các mối quan hệ của chính cộng đồng đó. Hoạt động này diễn ra với những hình thức và cấp độ khác nhau, nhằm thoả mãn và phục vụ lợi ích đa dạng trước mắt và lâu dài của các tầng lớp người; thoả mãn những nhu cầu của các cá nhân và tập thể trong môi trường mà họ sinh sống.

Môi trường của lễ hội truyền thống Việt Nam về cơ bản chính là nông thôn, làng xã Việt Nam. Lễ hội là môi trường thuận lợi mà ở đó các yếu tố văn hoá truyền thống được bảo tồn và phát triển. Những yếu tố văn hoá truyền thống đó không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, vận hành cùng tiến trình phát triển lịch sử của mỗi địa phương trong lịch sử chung của đất nước. Nó chính là hệ quả của cả quá trình lịch sử của không chỉ một cộng đồng người. Đây chính là tinh hoa được đúc rút, kiểm chứng và hoàn thiện trong dọc dài lịch sử của bất cứ một cộng đồng cư dân nào. Lễ hội có sức lôi cuốn, hấp dẫn và trở thành nhu cầu, khát vọng của người dân cần được đáp ứng và thoả nguyện qua mọi thời đại. Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân trong xã hội ở từng giai đoạn của lịch sử.

Hiện tại ở nước ta có nhiều loại lễ hội, bên cạnh lễ hội cổ truyền còn có Lễ hội mới, (lễ hội hiện đại, gắn với các sự kiện lịch sử hiện đại, cách mạng), lễ hội sự kiện (gắn với du lịch quảng bá du lịch, Lễ hội nhân kỷ niệm những năm chẵn thành lập thành phố, tỉnh, huyện)…, trong đó lễ hội cổ truyền thống có số lượng nhiều nhất (khoảng trên 7000 lễ hội trong tổng số gần 9000 lễ hội), phạm vi phân bố rộng (cả nông thôn, đô thị, vùng núi các dân tộc), có lịch sử lâu đời nhất. Người ta có thể phân loại lễ hội cổ truyền theo thời gian các mùa trong năm, trong đó quan trọng nhất là mùa xuân, mùa thu (xuân thu nhị kỳ), phân chia theo phạm vi lớn nhỏ: Lễ hội làng, lễ hội vùng, lễ hội quốc gia. Phân loại theo tính chất của lễ hội: Lễ hội nghề nghiệp (nông, ngư, nghề buôn…), lễ hội tôn vinh anh hùng dân tộc, người có công với quê hương, đất nước, lễ hội gắn với các tôn giáo tín ngưỡng cụ thể như lễ hội của Phật, Kitô, Tín ngưỡng dân gian…

Lễ hội cổ truyền là những mốc đánh dấu chu trình đời sống sản xuất và đời sống xã hội của mỗi cộng đồng người, mà một khi cái mốc mang tính lễ nghi đó chưa được thực hiện thì các quá trình sản xuất và quá trình xã hội đó sẽ bị đình trệ, sự sinh tồn và các quan hệ xã hội sẽ bị phá vỡ. Ví dụ, nếu người Việt và người Tày chưa thực hiện nghi lễ “Hạ điền”, “Lồng tồng” thì việc gieo hạt đầu mùa sẽ không thể thực hiện, đứa trẻ sinh ra nếu chưa được thực thi nghi lễ “thổi tai”, đặt tên thì nó chưa thể trở thành con người, một chàng trai đến tuổi trưởng thành mà chưa trải qua nghi lễ thành đinh, cấp sắc thì chưa thể trở thành một thành viên thực sự của cộng đồng, một đôi nam nữ thanh niên chưa là lễ tơ hồng, lễ trình gia tiên thì không thể trở thành vợ chồng, một người chết nếu chưa được thày Tào của người Tày chưa đến thực hiện nghi lễ gọi hồn đưa hồn thì nghi lễ mai táng sẽ không được thực thi. Do vậy, một nghi lễ, lễ hội bao giờ cũng mang tính chuyển tiếp của một chu trình sản xuất vật chất hay xã hội nhất định.

Trong số hơn 7000 lễ hội cổ truyền của nước ta, xét về nguồn cội đều là lễ hội nông nghiệp, quy mô ban đầu là hội làng. Tuy nhiên, trong tiến trình lịch sử, các lễ hội nông nghiệp này dần biến đổi, làm phong phú hơn bằng những nội dung lịch sử (nhất là lịch sử chống ngoại xâm), nội dung xã hội (nhất là các quan hệ cộng đồng), nội dung văn hóa tạo nên diện mạo vô cùng phong phú và đa dạng như ngày nay.

So với các loại lễ hội khác, lễ hội cổ truyền mang 3 đặc trưng cơ bản sau:

- Lễ hội cổ truyền gắn với đời sống tâm linh, tôn giáo tín ngưỡng, nó mang tính thiêng, do vậy nó thuộc thế giới thần linh, thiêng liêng, đối lập với đời sống trần gian, trần tục. Có nhiều sinh hoạt, trình diễn trong lễ hội nhìn bề ngoài là trần tục, như các trò vui chơi giải trí, thi tài, các diễn xướng mang tính phồn thực, nên nó mang tính “tục”, nhưng lại là cái trần tục mang tính phong tục, nên nó vẫn thuộc về cái thiêng, như tôn sùng sinh thực khí mà hội Trò Trám (Phú Thọ) là điển hình.

Tính tâm linh và linh thiêng của lễ hội nó quy định “ngôn ngữ” của lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng, tính thăng hoa, vượt lên thế giới hiện thực, trần tục của đời sống thường ngày. Ví dụ, diễn xướng ba trận đánh giặc Ân trong Hội Gióng, diễn xướng cờ lau tập trận trong lễ hội Hoa Lư, diễn xướng rước Chúa gái (Mỵ Nương) trong Hội Tản Viên… Chính các diễn xướng mang tính biểu tượng này tạo nên không khí linh thiêng, hứng khởi và thăng hoa của lễ hội.


Lễ hội Hùng Vương

- Lễ hội cổ truyền là một sinh hoạt văn hóa mang tính hệ thống tính phức hợp, một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, bao gồm gần như tất cả các phương diện khác nhau của đời sống xã hội của con người: sinh hoạt tín ngưỡng, nghi lễ, phong tục, giao tiếp và gắn kết xã hội, các sinh hoạt diễn xướng dân gian (hát, múa, trò chơi, sân khấu…), các cuộc thi tài, vui chơi, giải trí, ẩm thực, mua bán… Không có một sinh hoạt văn hóa truyền thống nào của nước ta lại có thể sánh được với lễ hội cổ truyền, trong đó chứa đựng đặc tính vừa đa dạng vừa nguyên hợp này.

- Chủ thể của lễ hội cổ truyền là cộng đồng, đó là cộng đồng làng, cộng đồng nghề nghiệp, cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng, cộng đồng thị dân và lớn hơn cả là cộng đồng quốc gia dân tộc. Nói cách khác không có lễ hội nào lại không thuộc về một dạng cộng đồng, của một cộng đồng nhất định. Cộng đồng chính là chủ thể sáng tạo, hoạt động và hưởng thụ các giá trị văn hóa của lễ hội.

Ba đặc trưng trên nó quy định tính chất, sắc thái văn hóa, cách thức tổ chức, thái độ và hành vi, tình cảm của những người tham gia lễ hội, phân biệt với các loại hình lễ hội khác như lễ hội sự kiện, các loại Festival...

Lễ hội cũng như bất cứ một hiện tượng văn hóa, xã hội nào cũng đều chịu sự tác động bối cảnh kinh tế - xã hội đương thời và nó cũng phải tự thích ứng biến đổi theo. Tuy nhiên, với loại hình lễ hội truyền thống thì ba đặc trưng nêu trên là thuộc về bản chất, là yếu tố bất biến, là hằng số, chỉ có những biểu hiện của ba đặc tính trên là có thể biến đổi, là khả biến để phù hợp với từng bối cảnh xã hội. Khẳng định điều này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với việc phục hồi, bảo tồn và phát huy lễ hội trong xã hội hiện nay. Việc phục dựng, làm mất đi các đặc trưng trên của lễ hội cổ truyền thực chất là làm biến dạng và phá hoại các lễ hội đó.

2. Giá trị của lễ hội cổ truyền


Lễ hội Tịch Điền

Khi nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng lễ hội cổ truyền vẫn tồn tại thậm chí còn bùng phát mạnh mẽ. Phải chăng lễ hội cổ truyền vẫn thu hút và lôi cuốn con người xã hội hiện đại? Nói cách khác, lễ hội cổ truyền vẫn đáp ứng nhu cầu của con người không chỉ trong xã hội cổ truyền mà cả xã hội hiện đại. Có được điều đó là do lễ hội cổ truyền hội tụ các giá trị sau:

Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng:

Lễ hội nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể là cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng - quôc tế) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng họ... chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng.

Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, như gắn kết do cùng cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài nguyên và lợi ích kinh tế (công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng cảm)… Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng đồng.

Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con người càng ngày càng khẳng định “cái cá nhân”, “cá tính” của mình thì không vì thế cái “cộng đồng” bị phá vỡ, mà nó chỉ biến đổi các sắc thái và phạm vi, con người vẫn phải nương tựa vào cộng đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều kiện như vậy, lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố kêt cộng đồng ấy.

Giá trị hướng về cội nguồn:

Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cộng đồng như dân tộc, đất nước, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá... Hơn thế nữa, hướng về nguồn đã trở thành tâm thức của con người Việt Nam - “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Chính vì thế, lễ hội bao giờ cũng gắn với hành hương - du lịch.

Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn cầu hóa, con người bừng tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên, môi trường; với lịch sử xa xưa, với truyền thống văn hoá độc đáo đang bị mai một. Chính trong môi trường tự nhiên và xã hội như vậy, hơn bao giờ hết con người càng có nhu cầu hướng về, tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của mình, hoà mình vào với môi trường thiên nhiên; trở về, tìm lại và khẳng định cái nguồn gốc cộng đồng và bản sắc văn hoá của mình trong cái chung của văn hoá nhân loại. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là một biểu tượng, có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc ấy. Đó cũng chính là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội có thể đáp ứng nhu cầu của con người ở mọi thời đại.

Giá trị cân bằng đời sống tâm linh:

Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống tâm linh. Đó là đời sống của con người hướng về cái cao cả thiêng liêng - chân thiện mỹ - cái mà con người ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm tin tôn giáo tín ngưỡng. Như vậy, tôn giáo tín ngưỡng thuộc về đời sống tâm linh, tuy nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín ngưỡng. Chính tôn giáo tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người, đó là “cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống trần tục, hiện hữu.

Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường như được “chương trình hoá” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và đơn điệu, ồn ào, chật chội nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy tuy có đầy đủ về vật chất nhưng vẫn khô cứng về đời sống tinh thần và tâm linh, một đời sống chỉ có dồn nén, “trật tự” mà thiếu sự cởi mở, xô bồ, “tháo khoán”... Tất cả những cái đó hạn chế khả năng hoà đồng của con người, làm thui chột những khả năng sáng tạo văn hoá mang tính đại chúng. Một đời sống như vậy không có “thời điểm mạnh”, “cuộc sống thứ hai”, không có sự “bùng cháy” và “thăng hoa”.

Trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được tắm mình trong dòng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những giây phút thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt cao cả - chân thiện mỹ, được sống những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng, con người có thể phô bày tất cả những gì là tinh tuý đẹp đẽ nhất của bản thân qua các cuộc thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác hẳn ngày thường... Tất cả đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống hiện thực, vượt lên trên đời sống hiện thực. Nói cách khác, lễ hội đã thuộc về phạm trù cái thiêng liêng của đời sống tâm linh, đối lập và cân bằng với cái trần tục của đời sống hiện thực.

Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa:

Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hoá cộng đồng của nhân dân ở nông thôn cũng như ở đô thị. Trong các lễ hội đó, nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn hoá cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hoá và tâm linh, do vậy, lễ hội bao giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc. Đặc biệt trong “thời điểm mạnh” của lễ hội, khi mà tất cả mọi người chan hoà trong không khí thiêng liêng, hứng khởi thì các cách biệt xã hội giữa cá nhân ngày thường dường như được xoá nhoà, con người cùng sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá của mình.

Điều này có phần nào đối lập với đời sống thường nhật của những xã hội phát triển, khi mà phân công lao động xã hội đã được chuyên môn hoá, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của con người đã phần nào tách biệt.

Đấy là chưa kể trong xã hội nhất định, một lớp người có đặc quyền có tham vọng “cướp đoạt” các sáng tạo văn hoá cộng đồng để phục vụ cho lợi ích riêng của mình. Đến như nhu cầu giao tiếp với thần linh của con người cũng tập trung vào một lớp người có “khả năng đặc biệt”. Như vậy, con người, đứng từ góc độ quảng đại quần chúng, không còn thực sự là chủ thể của quá trình sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá một cách bình đẳng nữa. Xu hướng đó phần nào xói mòn tinh thần nhân bản của văn hoá, làm tha hoá chính bản thân con người. Do vậy, con người trong xã hội hiện đại, cùng với xu hướng dân chủ hoá về kinh tế, xã hội thì cũng diễn ra quá trình dân chủ hoá về văn hoá. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là môi trường tiềm ẩn những nhân tố dân chủ trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá ấy.

Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa:

Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hoá dân tộc, mà còn là môi trường bảo tồn, làm giàu và phát huy nền văn hoá dân tộc ấy.

Cuộc sống của con người Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày hội, mà trong chu kỳ một năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn, vất vả, lo âu, để rồi “xuân thu nhị kỳ”, “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, cuộc sống nơi thôn quê vốn tĩnh lặng ấy vang dậy tiếng trống chiêng, người người tụ hội nơi đình chùa mở hội. Nơi đó, con người hoá thân thành văn hoá, văn hoá làm biến đổi con người, một “bảo tàng sống” về văn hoá dân tộc được hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tôi đã nhiều lần tự hỏi, nếu như không có nghi lễ và hội hè thì các làn điệu dân ca như quan họ, hát xoan...; các điệu múa xanh tiền, con đĩ đánh bồng, múa rồng, múa lân...; các hình thức sân khấu chèo, hát bội, rối nước, cải lương...; các trò chơi, trò diễn: Đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh vật, bơi trải, đánh phết, trò trám... sẽ ra đời và duy trì như thế nào trong lòng dân tộc suốt hàng nghìn năm qua. Và như vậy thì dân tộc và văn hoá dân tộc sẽ đi đâu, về đâu, sẽ còn mất ra sao?

Đã ai đó từng nói làng xã Việt Nam là cái nôi hình thành, bảo tồn, sản sinh văn hoá truyền thống của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và đồng hoá. Trong cái làng xã nghèo nàn ấy, ngôi đình mái chùa, cái đền và cùng với nó là lễ hội với “xuân thu nhị kỳ” chính là tâm điểm của cái nôi văn hoá đó. Không có làng xã Việt Nam thì cũng không có văn hoá Việt Nam.

Điều này càng cực kỳ quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn cầu hoá hiện nay, khi mà sự nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát huy văn hoá truyền thống dân tộc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, thì làng xã và lễ hội Việt Nam lại gánh một phần trách nhiệm là nơi bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc!

3. Thực trạng hoạt động của các lễ hội truyền thống ở Việt Nam


Lễ hội Quan thế âm

Những hiệu quả không thể phủ nhận:

Trong những năm qua, công tác tổ chức và quản lý lễ hội ở nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực, từ tư duy nhận thức của các cấp lãnh đạo và toàn xã hội; việc ban hành và thực thi các văn bản quản lý nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra lễ hội cho đến việc phục hồi và phát huy có hiệu quả nhiều lễ hội dân gian, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.

Hầu hết các lễ hội quy mô quốc gia đến các lễ hội nhỏ phạm vi làng, xã đều được tổ chức các nghi thức cúng lễ trang trọng, linh thiêng và thành kính. Chương trình tham gia phần hội phong phú hấp dẫn, bảo tồn có chọn lọc những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc theo xu hướng lành mạnh, tiến bộ, tiết kiệm, tổ chức các hoạt động văn hóa dân gian, diễn xướng dân gian, dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc để quảng bá, giới thiệu những giá trị văn hóa của các dân tộc Việt Nam.

Mặt khác, việc tổ chức lễ hội dân gian đã kết hợp gắn kết các hoạt động văn hóa, thể thao truyền thống với quảng bá du lịch, giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam và mỹ tục truyền thống văn hoá lâu đời tốt đẹp, độc đáo của dân tộc ta, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, tâm thức hướng về nguồn cội của cộng đồng. Đồng thời, các sinh hoạt lễ hội truyền thống đã góp phần giáo dục đạo lý uống nước nhớ nguồn, tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng, làm nên vẻ đẹp của các công trình tín ngưỡng, tôn giáo.

Do phát huy vai trò chủ thể của người dân hoạt động lễ hội đã được xã hội hoá rộng rãi, huy động được nguồn lực lớn từ nhân dân, nguồn tài trợ, cung tiến ngày càng tăng, nguồn thu qua công đức, lệ phí, dịch vụ phần lớn đã được sử dụng cho trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, tổ chức lễ hội đã và đang góp phần bảo tồn các phong tục, tập quán truyền thống và hoạt động phúc lợi công cộng.

Thông qua lễ hội, đã và đang tạo lập môi trường thuận lợi để nhân dân thực sự là chủ thể của hoạt động lễ hội, chủ động sáng tạo, cùng tham gia tổ chức, đóng góp sức người sức của cho các lễ hội truyền thống, nâng cao trách nhiệm của tổ chức cá nhân và cộng đồng trong tham gia hoạt động lễ hội, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và nhu cầu tín ngưỡng của các tầng lớp nhân dân.

Với tư cách là tài nguyên du lịch nhân văn đặc biệt, bản thân các lễ hội hay việc tổ chức các lễ hội kết hợp phát triển du lịch là mô hình mới được hình thành những năm gần đây và đang trên đà phát triển mạnh, đem lại những hiệu quả văn hóa và kinh tế thiết thực như những đánh giá của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Hội nghị triển khai công tác văn hóa, thể thao và du lịch: “Hoạt động lễ hội đã thực sự trở thành hoạt động văn hóa du lịch, quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”.

Nhờ công tác chỉ đạo quyết liệt của Bộ và sự vào cuộc của các cơ quan chuyên môn như Thanh tra Bộ, Cục Văn hóa cơ sở, Cục Di sản Văn hóa, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, trong mùa lễ hội Xuân 2012 vừa qua, mộ số tồn tại trong công tác quản lý, tổ chức lễ hội đã có những thay đổi cơ bản như Lễ hội chùa Hương (Hà Nội), Đền Trần (Nam Định). . .

Bốn cảnh báo về tổ chức 1ễ hội cổ truyền hiện nay:

Bên cạnh những điều đáng mừng trên, quan sát bức tranh lễ hội cổ truyền hiện nay, ta vẫn thấy canh cánh những lo lắng, băn khoăn. Sau một thời gian dài, do chiến tranh, do quan niệm ấu trĩ, sai lầm của chúng ta, lễ hội mất mát, tiêu điều, nay phục hưng trở lại, do vậy cũng không tránh được lệch lạc, khiếm khuyết; công tác tổ chức và quản lý lễ hội đã và đang nảy sinh nhiều bất cập, nhiều hạn chế và tồn tại. Tình hình đó được phản ánh thường xuyên, liên tục trên các phương tiện thông tin đại chúng, tại nhiều hội nghị, hội thảo cho đến cả nghị trường của Quốc hội, gây không ít bức xúc trong xã hội. Có thể khái quát thành bốn hiện tượng đáng cảnh báo như sau:

Đơn điệu hoá lễ hội:

Văn hoá nói chung cũng như lễ hội nói riêng, bản chất của nó là đa dạng. Cùng là lễ hội, nhưng mỗi vùng miền, thậm chí mỗi làng có nét riêng, theo kiểu người xưa nói “Chiêng làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Hay người xưa khi nói về những nét riêng của lễ hội từng làng của Xứ Đoài thì đã có câu ca :

Bơi Đăm, Rước Giá, Hội Thầy

Vui thì vui vậy, chẳng tầy rã La

Như vậy, mỗi lễ hội đều có cốt cách, sắc thái riêng, cuốn hút khách thập phương đến với lễ hội làng mình. Tuy nhiên, ngày nay, lễ hội đang đứng trước nguy cơ nhất thể hoá, đơn điệu hoá, hội làng nào, vùng nào cũng na ná như nhau, làm thui chột đi tính đa dạng của lễ hội, du khách thập phương sau một vài lần dự hội thì cảm thấy nhàm chán và không còn hứng thú đi chơi hội nữa.

Trần tục hoá lễ hội:

Lễ hội gắn với tín ngưỡng dân gian, do vậy nó thuộc về đời sống tâm linh nó mang “tính thiêng”. Tất nhiên, tính thiêng là cái vĩnh hằng, nhưng trong mỗi xã hội nó được biểu hiện ở những hình thức khác nhau. Lễ hội cổ truyền tuy nảy mầm, bén rễ từ đời sống hiện thực, trần tục, nhưng bản thân nó là sự thăng hoa từ đời sống hiện thực và trần tục ấy. “Ngôn ngữ” biểu hiện của lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng. Ví dụ, 3 trận đánh giặc Ân của ông Gióng trong hội Gióng là 3 trận đánh mang tính biểu trưng. Giặc Ân cũng biểu trưng hoá thành yếu tố “âm” của 28 cô gái. Để nói vận hành của trời đất liên quan đến canh tác nông nghiệp của người nông dân, thì trong hội vật cầu hay hội đánh phết, người xưa đã biểu trưng hoá quả cầu hay quả phết thành màu đỏ biểu tượng cho mặt trời, được đánh theo hướng đông tây là chuyển động của mặt trời…

Ngày nay, trong phục hồi và phát triển lễ hội, do chưa nắm được ý nghĩa thiêng liêng, đặc biệt là cách diễn đạt theo cách “biểu trưng”, “biểu tượng” của người xưa, nên lễ hội đang bị trần tục hoá, tức nó không còn giữ được tính thiêng, tính thăng hoa và ngôn ngữ biểu tượng của lễ hội và như vậy lễ hội không còn là lễ hội đích thực nữa.

Quan phương hoá lễ hội:

Văn hoá nói chung, trong đó có sinh hoạt lễ hội là sáng tạo của nhân dân, do nhân dân và vì dân. Đó là cách thức mà người dân nói lên những mong ước, khát vọng tâm linh, thoả mãn nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của mình. Do vậy, từ bao đời nay, người dân bỏ công sức, tiền của, tâm sức của mình ra để sáng tạo và duy trì sinh hoạt lễ hội. Đó chính là tính nhân bản, khát vọng dân chủ của người dân, nó khác với các nghi thức, lễ lạt của triều đình phong kiến trước kia.

Trong việc phục hồi và phát huy lễ hội cổ truyền hiện nay, dưới danh nghĩa là đổi mới lễ hội, gắn lễ hội với giáo dục truyền thống, gắn lễ hội với du lịch…đây đó và ở những mức độ khác nhau đang diễn ra xu hướng quan phương hoá, áp đặt một số mô hình định sẵn, làm cho tính chủ động, sáng tạo của người dân bị suy giảm, thậm chí họ còn bị gạt ra ngoài sinh hoạt văn hoá mà vốn xưa là của họ, do họ và vì họ. Chính xu hướng này khiến cho lễ hội mang nặng tính hình thức, phô trương, “giả tạo”, mà hệ quả là vừa tác động tiêu cực tới chủ thể văn hoá, vừa khiến cho du khách hiểu sai lệch về nền văn hoá dân tộc.

Thương mại hoá lễ hội:

Cần phân biệt giữa hoạt động mua bán trong lễ hội và việc thương mại hoá lễ hội. Từ xa xưa, trong lễ hội không thể thiếu việc mua bán các sản phẩm độc đáo của địa phương, các món ăn đặc sản, mà hội chợ Viềng Ở Nam Định và các hội chợ vùng núi là hiện tượng điển hình. Chính các hoạt động mua bán đó vừa mang ý nghĩa văn hoá, phong tục “mua may bán rủi”, vừa quảng bá các sản phẩm địa phương, mang lại những thu nhập đáng kể cho một số ngành nghề ở địa phương. Đó là các hoạt động rất đáng khuyến khích.

Tuy nhiên, cùng với xu hướng phục hồi và phát triển lễ hội hiện nay, thì không ít các hoạt động mang tính “thương mại hoá”, lợi dụng lễ hội để thu lợi bất chính, ép buộc, bắt chẹt người đi trẩy hội, đặc biệt là lợi dụng tín ngưỡng trong lễ hội để “buôn thần bán thánh” theo kiểu “đặt lễ thuê”, “khấn vái thuê”, bói toán, đặt các “hòm công đức” tràn lan, tạo dựng các “di tích mới” để thu tiền như trong lễ hội Chùa Hương, Bà Chúa Kho... Cũng không phải không có một số “tổ chức” mệnh danh là quản lý lễ hội, hoạt động du lịch để bán vé thu tiền bất chính khách trẩy hội. Những hoạt động thương mại này đi ngược lại tính linh thiêng, văn hoá của lễ hội, đẩy lễ hội rớt xuống mức thấp nhất của đời sống trần tục.

Sưu tầm < http://cinet.gov.vn/ >

Thứ Ba, 26 tháng 12, 2017

Lễ hội Bà Chúa Xứ - An Giang


Lễ hội Bà Chúa Xứ (còn gọi là lễ Vía Bà) được tổ chức hàng năm bắt đầu từ đêm 23/4 đến 27/4 âm lịch. Tại Miếu Bà Chúa Xứ thuộc phường Núi Sam (trước là xã Vĩnh Tế),thị xã Châu Đốc tỉnh An Giang.

Phần lễ của lễ Vía Bà gồm năm lễ: Lễ tắm Bà, Lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về Miếu Bà, Lễ Túc Yết, Lễ xây chầu, Lễ Chánh tế.

Lễ tắm Bà. Lễ này được tổ chức vào lúc 24 giờ đêm 23 rạng ngày 24. Nói là tắm bà, nhưng thực tế là lau lại bụi bặm trên tượng thờ và thay áo mão cho Bà. Nước tắm tượng là nước thơm, bộ y phục cũ của Bà được cắt nhỏ ra phân phát cho khách trẩy hội và được coi như lá bùa hộ mệnh giúp cho người khoẻ mạnh và trừ ma quỷ. Lễ tắm Bà thường kéo dài khoảng một giờ, sau đó mọi người được tự do lễ bái.

Lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về Miếu Bà:Lễ này được tiến hành vào lúc 15 giờ ngày 24.Các bô lão trong làng và Ban quản trị lăng miếu lễ phục chỉnh tề sang lăng Thoại Ngọc Hầu nằm đối diện với miếu bà làm lễ Thỉnh Sắc rước bài vị của Ngọc Hầu Nguyễn văn Thoại, bà nhị phẩm Trương Thị Miệt, và bài vị Hội đồng. Khi vào đến Miếu Bà, các bài vị trên được an vị ngôi chính điện, Ban quản trị dâng hương thỉnh an, lễ thỉnh sắc kết thúc. Tục lệ thỉnh sắc Thoại Ngọc hầu đã có từ lâu để tỏ lòng biết ơn ông là người có công khai phá vùng đất hoang vu này.


Lễ Túc Yết: Lễ được tổ chức 0 giờ ngày 25 rạng ngày 26. Tất cả các bô lão trong làng và Ban quản trị lăng miếu lễ phục chỉnh tề, đứng xếp hàng hai bên trước tượng Bà. Vật cúng gồm có: một con heo trắng (đã được cạo lông mổ bụng sạch sẽ, chưa nấu chín), một đĩa đựng huyết có ít lông heo gọi chung là "mao huyết", một mâm xôi, một mâm trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa gạo muối. Ông chánh bái làm lễ dâng hương, chúc tửu, hiến trà, dâng tế, sau đó thì hóa một ít giấy vàng bạc.

Lễ xây chầu: Sau cúng túc yết là Lễ xây chầu.Ông chánh bái sẽ bước tời bàn thờ đặt giữa võ ca, hai tay cầm dùi trống nâng ngang trán khấn vái. Phía bên trái bàn thờ có một tô nước và một nhành dương liễu. Ông chánh bái ca công cầm nhành dương nhúng vào tô nước rồi vảy nước ra xung quanh, vừa đọc to những lời cầu nguyện. Đọc xong, ông chánh bái ca công đặt tô nước, cành dương trở lại bàn thờ, ông đánh ba hồi trống và xướng "ca công tiếp giá", lập tức đoàn hát bộ nổi chiêng trống rộ lên và chương trình hát bộ bắt đầu. Các tuồng hát bộ sau đây thường được diễn tại miếu bà: Trần Bình Trọng, Sát Thát, Lưu Kim Đính, Trưng Nữ Vương v.v...

Lễ Chánh tế: Đến 4 giờ sáng ngày 26 cúng Chánh tế (nghi thức giống như cúng "túc yết"). Chiều ngày 27 đưa sắc Thoại Ngọc hầu về Sơn Lăng.

Phần hội diễn ra rất sôi nổi đan xen với phần lễ,các hoạt động văn hoá nghệ thuật dân gian được biểu diễn như múa lân, múa mâm thao, múa đĩa chén...thu hút nhiều du khách.

Lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam là một lễ hội mang bản sắc dân tộc đậm nét, nhưng cũng chứa đựng nhiều màu sắc địa phương Nam Bộ. Lễ hội thực sự là một lễ hội văn hoá dân gian đáp ứng nhu cầu văn hoá xã hội, đời sống tinh thần của nhân dân.

Thứ Năm, 21 tháng 12, 2017

Lễ Hội Cầu an Bản Mường

Lễ hội cầu an bản mường Lễ hội cầu an cho bản mường (xên bản, xên mường) của người Thái, đặc biệt là người Thái Mai Châu, Thuận Châu, Mộc Châu; người Mường... là một sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng rất quan trọng đối với cộng đồng người ở Tây Bắc. Lễ hội thường được tổ chức vào cuối tháng giêng, đầu tháng hai âm lịch hàng năm (dịp tết Nguyên đán), gắn với tục giết trâu hiến sinh cầu và tạ thần linh, được biểu hiện qua tiếng sấm, tức lời phán quyết của vua trời, qua hình tượng thủy thần, thuồng luồng... Lễ hội có liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh của cả bản mường, đến mùa màng, sức khỏe và sự làm ăn của cộng đồng năm ấy, nên được tổ chức rất trọng thể, vui vẻ, thu hút sự tham gia của đông bào ở địa vực lớn (bản, mường). 

Kết quả hình ảnh cho Lễ Hội Cầu an Bản Mường

Vậy là, để cầu bình an, cầu được mùa, mường bản tổ chức lễ hội xên mường, xên bản (hội hoa ban). Thường thì người ta tổ chức lễ cầu an cho mường trước, sau đó lần lượt làm lễ hội cầu an cho bản hoặc liên bản. Lễ hội này không chỉ bộc lộ khát vọng an lành cho cuộc sống, mối quan hệ khăng khít giữa thần và người mà còn biểu hiện khát vọng sinh sôi qua sự mong muốn là cầu khẩn mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi. Dần dà, lễ hội này còn mang tính chất tạ ơn thần linh đã cho mùa màng bội thu, đem sự no ấm đến cho mọi người. Chính vì thế, ngày nay, qui mô lễ hội (to hay nhỏ, kéo dài hay thu gọn... ) một phần lớn tùy thuộc vào thời tiết liên quan đến sự được mất của mùa màng năm tới, nhưng còn phụ thuộc vào sự được mất, nhiều ít của mùa màng vừa rồi, sau khi thu hoạch. Lễ hội này thường được tổ chức tại một bãi rộng, nơi có nguồn nước (mở nước), nhiều khi là nguồn nước thiêng, hoặc ở cạnh rừng (bìa rừng) trong hai hoặc ba ngày. Từ địa vực mà sự hiến sinh gắn với một biểu hiện của thần linh hay bản thân thần linh (sấm, mưa, thuồng luồng, thổ công, thổ địa...). Nhiều người cho biết, ở Mộc Châu, lễ hội này được tiến hành ở đầu nguồn nước thuộc một bản được chọn (thường là bản Mòn). Đây là nguồn nước thiêng, gần rừng thiêng, nơi cư trú của thần thuồng luồng đầy uy lực ở người Thái Mai Châu, thì lễ hội lại được tổ chức ở bãi rộng gần đình như các lễ hội ở châu thổ, đồng bằng. Có nơi, người ta tổ chức lễ ở các miếu thờ thổ công, thổ địa của bản, của gia đình, ở vườn và ở đầu ruộng. Thường thì ngay từ dịp tết Nguyên đán, mọi thứ dùng cho lễ hội đã chuẩn bị xong. 

Lễ hội thường kéo dài trong 3 ngày (có nơi hai ngày một đêm, có nơi một ngày một đêm). Nghi lễ cúng kiếng cơ bản là hiến sinh trâu (nơi là một cặp trâu đực to, trắng - đen, nơi thì một con, nhiều nơi cúng cả gà, lợn). ở Mộc Châu, trong lễ xên bản, xên mường, người ta hiến tế cặp trâu đen - trắng cỡ từ mười tuổi trở lên. Hai trâu, nhưng trâu trắng mới thực sự mang năng lượng thiêng để thành lễ vật tế thần (ở đây là thủy quái thuồng luồng, con ma to nhất dưới nước mà bà con thường gọi là phi ngược). Có lẽ nghi thức thờ, hiến sinh hai trâu là mới hơn nghi thức hiến sinh một trâu mộng rớt phổ biến. Bởi theo bà con cho biết, trước kia, dân một mường khác phải đem trâu trắng là các đồ cúng lên cúng tại bản Mòn này. Từ đó nảy sinh lễ cúng liên mường (xên liên mường) mà đồ cúng và trâu hiến sinh tăng thêm về số lượng. Suy tưởng này, thực ra, mới chỉ là giả thiết. 

Người chịu trách nhiệm chính trong tổ chức lễ hội cầu an bản mường là a nha, nhưng người trực tiếp điểu hành buổi lễ lại chính là ông thầy cúng (mo mường). Dân chúng trong mường, ngoài bản, bất kể già trẻ gái trai đều có nghĩa vụ tham gia, đóng góp tùy sức mình và được quyền tham dự lễ hội của mường. 

Nghi lễ giết trâu ở đâu hết sức đơn giản, không quan trọng và hệ thống như nghi lễ đâm trâu, ăn trâu ở Tây Nguyên. Trước ngày hội chính thức, tức là khoảng 2-3 giờ chiều ngày hôm trước, người ta đã làm lễ giết trâu. Trước khi thịt trâu, ông mo mường và ông mò phăn (tức ông thầy chém, được dân mường chọn ra) làm lễ vái thần linh, tổ tiên rồi cầm dao nhọn làm động tác chém dữ (mang tính nghi lễ) vào cổ các con trâu dùng tế lễ, miệng thì thầm những câu như thần chú (thực ra, nhiều người cho rằng các ông chỉ nói lời kính báo với thần linh, tổ tiên: trâu tế thần đã sẵn, dân bản, dân mường đã thịt trâu dâng các vị rồi đây nhé, xin các vị về mà nhận lấy. Sau đó, các ông lui ra, dành chỗ cho các thanh niên khỏe mạnh vào chém trâu, thịt trâu... Bắt đầu ngày hội, người ta làm nhiều mâm cỗ cúng (mỗi mâm cỗ tượng trưng cho một bản lớn, xưa, có tạo bản đứng đầu, các bản nhỏ không được tượng trưng bằng mâm cỗ) đặt cạnh nguồn nước thiêng của mường. Đặc biệt, mâm cỗ của ông a nha, đặt ở giữa, dùng cúng tổ tiên (mâm cúng chính thức) phải đầy đủ các bộ phận của con trâu hiến tế (đầu, đùi, thân, móng, đuôi...) cùng tất cả các bộ phận của một con lợn. Những mâm còn lại của các bản, ngoài thịt trâu, cơm rượu... còn phải có gà vịt, đặt ở hai bên mâm cúng chính, dành để cúng các vị thần khác. Khi buổi lễ bắt đầu, mo mường quì trước các mâm cỗ, phía sau là a nha, tạo bản, dân mường quì lễ. Trong không khí trang nghiêm, linh thiêng, ông mo trang trọng, xuất thần đọc bài cúng đã thông thuộc, mời tổ tiên (ông cha bà cố nội ngoại tiếng Thái là Pao pu pang cải), thần đất (Chau đỉn), chủ nguồn nước (Chau nặm bo), thổ công thổ địa... về nhận lễ vật, dùng cỗ, vui vẻ với cộng đồng dân cư bản mường; đồng thời cầu mong tổ tiên thần linh ban phúc, phù trợ cho bản mường bình lên, làm ăn suôn sẻ, con người khỏe mạnh, ngô lúa sinh sôi, gia súc gia cầm đàn đàn, lớp lớp. Khấn xong, mo mường và các vị chức sắc cùng dân bản mường vái lạy tổ tiên và các vị thần. Trong lúc đó, mo mường ném hai quả trứng (một đỏ, một trắng) và một nắm cơm nhỏ xuống nguồn nước. Cuộc lễ kết thúc, mọi người bắt đầu vào cuộc ăn uống cộng cảm, vui chơi thể thao, văn nghệ... 

Cuộc ăn uống cộng cảm diễn ra hết sức vui nhưng đúng lễ nghi. Các ông mo mường, a nha, tạo bản... ăn làm phép ở mâm cỗ chính, rồi đi từng mâm; ở mỗi mâm các ông ăn một miếng thịt, uống một hớp rượu. Kế đó, cả bản mường ăn uống vui vẻ cho bằng hết các mâm, không được bỏ thừa hay đem về. 

Để chuẩn bị cho việc diễn ra những trò bách hý trong hội lễ, ngay từ sáng tinh mơ của ngày đầu tiên, bên cạnh vị trí cúng lễ (mặt bằng, có thể là bàn đá cạnh nguồn nước), người dân bản đã sửa sang, dọn dẹp mặt bằng, rộng cách nơi hành lễ khoảng trên dưới 100m. Mọi hoạt động hội hè, trò chơi, văn nghệ, thể thao... đều được diễn ra nơi đây. Trời về chiều, trong tiếng trống, tiếng chiêng dìu dặt lúc khoan lúc nhặt, dân làng tổ chức xòe vòng, xòe đôi, xòe đơn thật hào hứng. Bên mâm rượu tập thể, những nam thanh nữ tú hát giỏi múa hay, biết nhiều, nhanh nhẹn trong ứng đối vừa ăn uống, chọc ghẹo, vừa hát đối đáp giao duyên. Họ hát giới thiệu, khen ngợi nhau, bày tỏ chí hướng, tỏ lòng với nhau... trong men rượu, men tình... Bên cạnh đó, dăm bảy đôi nam nữ (thường là những đôi đã ngầm kết nhau, tổ chức múa sạp, thi bắn nỏ, bắn súng hỏa mai. Nhiều nơi còn có tục đi săn tập thể vào ngày kết thúc lễ hội. Dưới sự chỉ huy của một thợ săn giỏi nhất mường, được dân bản bầu lên, mọi người lao mình vào cuộc săn một cách hào hứng. Thú rừng săn được sẽ chia đều cho mọi người cũng như lũ chó tham gia cuộc săn... Cứ như thế cuộc vui kéo dài trong hai, ba ngày. Sau đó, bản nào về bản ấy. Bản nào giàu có, nhiều khả năng vật chất thì mời mo mường, a nha về bản mình, tiếp tục mổ lợn, giết gà tiệc tùng vui vẻ, hoặc tổ chức cầu an cho bản (xên bản). 

Như vậy các nghi lễ chính trong lễ hội cầu an bản mường vừa bộc lộ tín ngưỡng thờ phụng thủy thần (thần nước, thần nguồn nước, sấm báo mưa) vừa thể hiện tín ngưỡng gắn với thời săn bắn, hái lượm nguyên thủy. Tuy nhiên, bằng vào tục hiến sinh trâu, có thể thấy nghi lễ chính là cầu thần nước, cầu tổ tiên cho làng bản bình an, làm ăn phát đạt, người vật phát triển. Tục đi săn, nhiều khi, là hệ quả kéo theo, ngày càng mang tính hội hè nhiều hơn. Vết tích nghi lễ tín ngưỡng qua tục săn bắn tỏ ra rất mờ. Dù sao, đó cũng là sự kéo theo hay xếp lớp văn hóa, thường gặp trong văn hóa dân gian. 

Về lễ hội cầu an cho bản mường, có tư liệu khác cho rằng đối tượng thiêng được chú ý là tiếng sấm (bóng dáng của nhiên thần, thần sấm, chớp - pháp lôi, pháp điện). Ngoại việc bộc lộ sự ngưỡng vọng, khẩn cầu thần nước cho mùa màng sinh sôi, con người phồn thịnh, có lẽ cũng còn những tín hiệu biểu trưng khác cần phải bóc tách và lý giải. Dù sao, việc chú trọng đến tiếng sấm đầu năm, với tư cách bóng dáng hay bản thân một nhiên thần (đại diện cho trời), một mặt chứng tỏ sự gắn bó đến mức nhiều khi lệ thuộc vào thiên nhiên, nhiên thần của cư dân và mùa màng tộc Thái, mặt khác cho thấy kinh nghiệm sống, kinh nghiệm làm ăn phong phú của cư dân ở đây. Qua một vài chi tiết thoáng qua, có tính gợi mở sau đây: "Người Thái Mai Châu cho rằng hễ năm nào nghe tiếng sấm rền từ phía thượng nguồn sông Mã, thì năm đó ắt có đại hạn... Người ta mổ ít lợn, gà làm lễ tế thần để cầu mưa, rửa lá lúa, xua đuổi thần trùng... Ngược lại, hễ nghe tiếng sấm đầu năm rền ở phía thượng nguồn sông Đà, thì mọi người đều phấn khởi, tươi vui. Họ tin rằng năm đó sẽ mưa thuận gió hòa, triển vọng mùa màng sẽ bội thu, thóc ngô đầy bồ đầy kho, mọi người khỏe mạnh, ít ốm đau" (60 lễ hội truyền thống Việt Nam - Thạch Phương, Lê Trung Dũng - Nxb Khoa học xã hội), có thể thất thần linh cũng được phân loại tốt xấu gắn với hoàn cảnh cụ thể, sự vật cụ thể, nguồn nước cụ thể (sông Mã, sông Đà...). Kinh nghiệm làm ăn thực tiễn có tác động không nhỏ đến suy niệm và đời sống tâm linh cư dân miền núi. Điều này gắn với việc thờ thuỷ quái đã nêu, song có vẻ gián tiếp hơn. Tuy nhiên, về mặt diễn trình, lễ hội cầu an bản mường có khác nhau ở một số chi tiết hội. 
Kết quả hình ảnh cho Lễ Hội Cầu an Bản Mường
Như vậy, ngoài sự khác biệt đôi chút ở nghi lễ hiến tế, hầu như, các hoạt động của lễ hội cầu an bản mường đều giống nhau, ở chỗ đây là dịp để mọi người tụ họp, gặp gỡ với tổ tiên, thần linh, gặp gỡ với nhau trong cả sinh hoạt vật chất lẫn hành động tâm linh; vừa bộc lộ niềm thành kính, ngưỡng vọng thánh thần, vừa thể hiện sức mạnh của con người; vừa cầu phúc cho một cuộc đời hạnh phúc, an bình, vừa bộc lộ khả năng vui chơi, thi tài... Có thể nói, lễ hội cầu an bản mường là một hoạt động văn hóa tín ngưỡng đặc sắc của các tộc Thái, Mường... ; một sinh hoạt văn hóa dân gian tổng thể; một nguồn vui không thể thiếu của cư dân ít người nơi rẻo cao Tây Bắc xa xôi, mỗi khi mùa hoa ban trắng nở.

Nguồn: http://huyenbi.net/Le-hoi-cau-an-ban-muong-495.html

Thứ Ba, 19 tháng 12, 2017

Lễ hội chùa hương - Mỹ Đức

Đây là một quần thể chùa ở khu vực Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Ngôi chùa lớn nhất, đẹp nhất, linh thiêng nhất là Động Hương Tích. Động Hương Tích còn gọi là Động Hương Sơn. Hương Tích nghĩa là dấu thơm, tương truyền rằng: Đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát đã tu hành và thành đạo tại đây.


Trảy hội chùa Hương không chỉ đi lễ Phật mà còn là có dịp thưỏng ngoạn cảnh đẹp của hình sông thê núi, có cơ hội nhặn biết bao công trình lớn nhỏ đặc sắc của di tích Hương Sơn

Hương Sơn Chùa Hương là “Một trung tâm Phật giáo Việt Nam”, một “đại danh lam” (sớm nhất là từ thế kỷ XV (Lê Thánh Tông), muộn nhất là thế kỷ XVIII (Lê Huy Tông Chính Hoà thứ 7, 1686). Năm Canh Dần (1770) Trịnh Sâm đã phong nơi đây là “Nam thiên đệ nhất động” (Động Phật thứ nhất trời Nam).

Kết quả hình ảnh cho Lễ hội chùa Hương – Hà Nội (Mỹ Đức, Hà Tây cũ)

Hương Sơn là một cảnh đẹp thiên nhiên nổi tiêng vào bậc nhất của nước ta. ở đây cảnh đẹp thiên nhiên lại được bàn tay con người tô điểm thêm từ lâu đời bằng những công trình văn hoá, nghệ thuật đặc sắc. Đốì với khách trong nước cũng như khách quốc tế, ngày xuân trẩy hội chùa Hương là đi vào một cuộc du ngoạn hứng thú: Du sơn, du thủy.

Dãy núi Hương Sơn không đẹp ở chiều cao mà đẹp ở chiều dài, chiều rộng, ỏ thế quần tụ, ỏ bô’ cục nhịp nhàng. Nhịp nhàng giữa núi với núi, lại nhịp nhàng giữa núi với nước. Những dòng suối Hương Sơn, đặc biệt là suốỉ Yến đẹp ở sự, hiền hoà giữa hai triền núi. Suối ỏ đây được kết hợp hài hòa với núi.

Muốn đến chùa Hương khách có thể đi với nhiều phương tiện khác nhau. Phương tiện ô tô chở khách từ Hà Nội, từ Nam Định, từ Phủ Lý… đến bến Đục. Từ bến Đục, khách có thể đi bộ theo con đường đá tới bến đò Yến Vì chỉ vài trăm mét. Hàng trăm chiếc thuyền nan, thuyền thúng, thuyền rồng và cả thuyền gắn máy đã sẵn sàng ỏ bến đò Suối để đưa khách hành hương đến vối Hương Sơn.

Những chiếc thuyền thoi của các cô gái làng Yến Vĩ, cứ đến ngày xuân lại chả khách mười phương vào một cõi rất thực, mà cũng rất mơ – vào đất Phật. Trong trạng thái vui say ấy, du khách gặp những con đò nốì tiếp nhau, đò vào gặp đò ra, trên đò đầy người và cũng màu sắc khăn áo, đầy những tiếng cười nói của mọi người, tiếng niệm Phật cửa các cụ bà, tiếng chào nhau “A Di Đà Phật”.

Khi đi trên suối du khách sẽ được thăm quan núi Đụn, núi Ồng Sư, núi Bà Vãi, núi Mâm Xôi, núi Gà, núi Rồng, núi Trống, núi Chiêng; động Tuyết Quỳnh, hang Sơn Thủy Hữu Tình và giải thích vì sao có núi Giải Oan, hòn Rẹp Rọ, chùa Cửa Võng,…

Cách đò Suốỉ khoảng 600m là chùa Trình (Ngũ Nhạc) khách vào Hương Tích như trình diện khi tối cảnh Phật và lúc ra về cũng vào chùa này như để từ giã cảnh Hương Sơn.

Đi tiếp sẽ là bến Trò (bến đò chùa Ngoài). Chùa Ngoài được gọi là chùa Thiên Trù (bếp nhà Trời) được xây dựng cách đây 3 thế kỷ, nằm lọt giữa một thung lũng nhỏ, xung quanh có ba quả núi cao màu xanh thẫm, trong trí tưởng tượng của ngưòi xưa đó là 3 chân bếp của nhà Tròi.

Theo một số tài liệu mới tìm được thì vua Lê Thánh Tông khi đi tuần thú phương Nam lần thứ hai có qua nơi đây. Trong lúc đóng quân nghỉ lại, nhà vua đặt tên cho khu vực này là Thiên Trù Tinh và thung lũng Phụ Mã.

Sau năm đó lần lượt có ba Hoà thượng (Tỵ Tổ Bồ Tát) chống thuyền trượng tới đây dựng thảo am để toạ thuyền nhập định và đặt tên là “Thiên Trù Tự”. Chùa này có một gác chuông khá lớn – gọi là Gác chuông chùa Thiên Trù. Gác chuông chùa Thiên Trù là một khối gần vuông cao 8,2m, dài 9,2m, rộng 7,8m. Cấu trúc gồm 4 cột cái ở trong, đỡ ba tầng mái, bốn góc cong nét đao mũi rồng và 12 cột quân vòng ngoài đón mái.

Từ dưới sân chùa trông lên, gác chuông giống như một bông sen cách điệu nhiều cánh, mang đậm phong cách dân gian độc đáo mà chúng ta thường gặp ở các công trình kiến trúc tôn giáo cổ.

Kết quả hình ảnh cho Lễ hội chùa Hương – Hà Nội (Mỹ Đức, Hà Tây cũ)

Chừa Thiên Trù còn có nhà Tam Bảo được kiến trúc theo kiểu chữ đinh hai tầng, kết hợp chồng diêm, tầng trên ba gian, tầng dưới là nhà Đại bái bảy gian. Hậu cung hai tầng là nơi thờ Phật. Giữa điện thờ Phật có tượng Nam Hải Quan Thế Âm bằng đá lấy nguyên mẫu tượng thờ trong động Hương Tích (được phóng to 2,5 lần, cao 2,8m), uy nghi trên bệ Phật. Theo ghi chép trong lịch sử thì nhà Tam Bảo được xây dựng và hoàn thành vào năm 1989.

Từ Thiên Trù, trên con đường đá men theo sườn núi vào chùa Trong (động Hương Tích). Đường lên động gập ghềnh, vì cái đẹp của núi và của động cũng một phần ở chính sự “gập gềnh mấy lối uốn thang mây”.

Trên đường vào chùa Trong có lối rẽ ra chùa Tiên. Chùa này thực chất là một hang đá rộng rãi, nhưng cửa ra vào lại là một khe nứt giữa một quả núi đá chỉ vừa người lách qua. Trong chùa có những pho tượng đá, khi đặt ngọn đèn phía sau lưng, thì cả pho tượng trong suốt, như một khốĩ hồng ngọc. Đi tiếp lên, du khách sẽ gặp chùa Giải Oan, vì chùa có một giếng nhỏ do mạch ngầm từ trong suối chảy ra thành dòng suối nhỏ, nước mát lạnh và trong vắt. Khách thập phương lưu truyền nhau uống nước giếng Giải Oan tâm hồn sẽ thanh thản, nỗi oan nghiệt sẽ tiêu tan. Sở dĩ nước giếng thiêng như thế, vì theo huyền thoại xưa đức Phật đã tắm ở đây để tẩy sạch bụi trần.

Từ chùa Giải Oan du khách gặp tiếp am Phật Tích, động Tuyết Quỳnh (quen gọi là Tuyết Kinh). Qua núi Trấn Song – có đền Cửa Võng, rồi thẳng tới chùa Trong – động Hương Tích.

“Đệ nhất động” là danh hiệu cao quý mà ngưòi thời xưa đã tặng cho động – chùa Hương Tích.

Theo truyền thuyết thì động là nơi Đức Phật Bà đã tu hành chính quả và đòi sau các chư vị La Hán cũng tu luyện ở đây.

Từ cửa động vào phía trong, du khách được ngắm nhìn nhiều nhũ đá như những công trình điêu khắc của thiên nhiên. Nhũ đá ở đây có khối to, khối nhỏ, có cái đẹp ở dáng dấp tinh vi, có cái rủ từ trên trần xuống, có cái mọc từ dưối đất lên. Tất cả đều tùy theo hình thù mà được đặt những cái tên rất dân gian.

Trước hết là Đụn Gạo đồ sộ, ở chân Đụn Gạo là Núi Cô và Núi Cậu. Núi Cô nhỏ hơn Núi Cậu nhưng giông nhau ở chỗ có những hình trẻ nhỏ nằm nghiêng, nằm sấp hoặc đang bò lổm ngổm, đầu nhẵn thín. Núi Cô và Núi Cậu được gọi chung là Núi Tiểu Nhi. Núi Cô ở ngang tầm vối Cửu Long Tranh Châu (chín con rồng tranh hòn ngọc) – những nhũ đá ở vòm động buông xuống trông như những con rồng múa lượn. Núi Cậu ở ngang tầm với Sữa Mẹ có hình người đàn bà xoã tóc như người mê mải chăm con, không kịp chải chuốt gì.

Cùng một hàng với núi Cô, Cậu và lui vào phía trong là Cây Bạc, Cây Vàng có rất nhiều những hình tròn lấp lánh như những đồng tiền vàng, bạc. Vào trong góc động gần tận cùng sẽ thấy những Chuồng Lợn, Ao Bèo, Nong Tằm, Né Kén…

Bên cạnh những công trình điêu khắc thiên tạo ấy là những công trình điêu khắc nhân tạo. Giá trị nhất về nghệ thuật điêu khắc, không những trong động Hương Tích mà trong toàn bộ hệ thông chùa ở Hương Sơn là pho tượng Phật Bà Quan Âm bằng đá xanh tạc vào thời Tây Sơn. Pho tượng có dáng người thiếu nữ thanh tú, mặt trái xoan, cổ cao ba ngấn, đầu đội mũ Tì Lư (mũ Bồ Tát), nhưng lại có búi tóc và tóc mai. Sau lưng cũng có hai lọn tóc buông xuống, tà áo mềm mại. Chỗ ngồi giông như một tảng đá xù xì, lại cũng giông như một gốc cây cổ thụ. Chân trái để trần đặt trên một bông hoa sen, chân phải co lên. Hai chân co duỗi thoải mái. Tay phải tựa vào chỗ ghồ lên của tảng đá. Tay trái cầm một viên ngọc minh châu. Bên cạnh bông sen dưói chân, là lá sen toả ra mềm mại như có gió lay động. Phía trong động còn có đưòng “Lên Trời”, đường xuông “Địa phủ”.

Muôn thăm hết cảnh Hương Sơn, khách hành hương còn phải leo lên chùa Hinh Bồng (trên đỉnh núi bên phải của chùa ThiênTrù) và động chùa Long Vân. Khi qua Suối Tuyết du khách đến chùa Bảo Đài. Từ Bảo Đài đi bộ đến động Tuyết Sơn. Cửa chùa trông ra cánh đồng lúa xanh mượt, lại bám sát những dải núi, hòn đậm, hòn nhạt, tạo nên màu sắc diệu kỳ của bức tranh hoà hợp khổng lồ.

Trong những dịp hội, thì trung tâm lễ hội là chùa Thiên Trù. Buổi tôi, người ỏ mọi ngả chùa dồn về gặp gỡ, ăn uống và tìm nơi nghỉ đêm. Hàng trăm gian nhà có đủ giường, chiếu do bà con địa phương dựng lên trong dịp xuân để phục vụ khách thập phương. Nhiều tốp thanh niên, học sinh, gia đình… mang theo lều cắm trại ỏ đây để thức với thiên nhiên, với bầu trời cảnh Phật nên thơ này.

Chùa Hương, có đặc sản là rau sắng. Có mơ Hương Tích quả nhỏ, giòn, chỉ chua mà không chát, có hương thơm. Quả lạc tiên và những khúc mai già đun nước uống giúp dễ ngủ và sảng khoái. Có khánh, có tượng Phật Bà, có các tập thơ và những áng văn hay viết về chùa Hương còn lưu truyền muôn thuỏ.

Lễ hội chùa Hương kéo dài từ mùng 6 tháng giêng đến hết tháng 3 âm lịch. Du khách có thể đi bằng đường bộ theo hành trình Hà Nội – Hà Đông – Vân Đình – Hương Sơn hoặc từ thị xã Phủ Lý ngược dòng sông áy lên Bốn Đục – Yến Vì – Hương Sơn.

Theo tâm thức của người Việt Nam Hương Sơn được coi là cõi Phật. Chùa Hương là nơi thờ Phật Bà Quan Ảm. Ngày 6 tháng giêng là ngày khai hội, có tổ chức múa rồng ỏ sân đển Trình, bơi thuyền múa rồng trên dòng suối Yến.

Hội trải rộng trên 3 tuyến, tuyến Hương Tích, tuyến Tuyết Sơn và tuyến Long Vân. Hội chùa đông nhất từ 15 • 20 tháng 2 (chính hội). Đường núi từ chùa Ngoài vào chùa Trong lúc nào cũng tấp nập từng đoàn người lên lên, xuống xuông.

Trảy hội chùa Hương không chỉ đi lễ Phật mà còn là có dịp thưỏng ngoạn cảnh đẹp của hình sông thê núi, có cơ hội nhặn biết bao công trình lớn nhỏ đặc sắc của di tích Hương Sơn đã trở thành di sản văn hoá của dân tộc.

5 việc bạn quan trọng cần phải làm khi về nhà mới

Việc chuyển đến nhà mới là một việc rất quan trọng, việc này có nghĩa rằng bạn sẽ bắt đầu những khởi đầu mới.

Vì vậy mọi thứ phải được diễn ra một cách suôn sẻ và tốt đẹp nhất, mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc và sự hứng khởi mới cho các thành viên trong gia đình của bạn, nhưng nó cũng có những lưu ý phong thủy truyền thống mà bạn cần phải nắm rõ.

Không ít người tỏ ra bối rối vì không biết khi về nhà mới cần làm gì để mang lại những điều tốt lành trong cuộc sống. Theo quan niệm dân gian, những nghi thức cần chuẩn bị trước khi dọn vào nhà là rất quan trọng. Nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tài vận và cuộc sống của gia chủ về lâu dài.

Dưới đây là 5 việc quan trọng mà bạn nhất định phải chú trọng, không thể bỏ qua:

Huỳnh Cát Tiên

Thứ Năm, 14 tháng 12, 2017

Những lễ hội độc đáo ở Đài Loan qua các tháng trong năm

Đài Loan là điểm đến hấp dẫn đối với những du khách thích du lịch văn hóa, bởi người dân nơi đây giữ lại được nét văn hóa truyền thống với một loạt lễ hội trải dài qua nhiều tháng.


Cũng như nhiều nơi khác ở châu Á, người Đài Loan đón Tết Âm lịch từ ngày 1 đến ngày 15 của tháng 1 Âm lịch. Tết Nguyên đán (hay còn gọi là lễ hội mùa xuân) là lúc mọi người xua bỏ hết những điều cũ kĩ của năm đã qua và đón chờ những điều mới mẻ. Đi liền với lễ hội này là hoạt động tiễn ông Táo về trời, dọn dẹp nhà cửa, nấu bánh bò (fagao), bánh gạo (niangao), cúng Giao thừa, đi lễ chùa, thăm hỏi người thân, bạn bè, cúng Thần tài vào mồng 4 và kinh doanh trở lại vào mồng 5.


Du khách đến với Đài Loan những ngày đầu xuân không nên bỏ lỡ lễ hội đèn trời Bình Khê (Pingxi). Cảm giác hàng nghìn chiếc đèn lung linh, đỏ rực trên nền trời tối là cảnh tượng mà bất kỳ ai chứng kiến cũng không khỏi ngỡ ngàng. Hoạt động truyền thống này xuất phát từ một câu chuyện cổ về dân làng Thập Phần (Shifen) thả đèn lồng lên trời để báo hiệu bình an. Việc thả đèn trời cũng mang ý nghĩa gửi gắm những ước nguyện đến trời cao và bày tỏ lòng thành kính mong điều ước sẽ trở thành sự thật. Ảnh: Culture Trip.


Lễ hội lồng đèn Đài Loan là hoạt động thường niên của vùng đảo xinh đẹp này. Năm sau, chương trình sẽ diễn ra từ ngày 2/3 đến 11/3/2018 tại Gia Nghĩa, Đài Loan. Trong ảnh là lễ hội lồng đèn diễn ra vào năm 2017 ở Vân Lâm (Yunlin). Ảnh: Taiwan News.


Những chiếc lồng đèn khổng lồ, đa dạng về kiểu dáng, kích thước và màu sắc là điểm nhấn của hoạt động này, hứa hẹn thu hút những du khách nhí đến với Đài Loan. Bằng cách đưa du lịch, công nghệ, văn hóa và nghệ thuật vào một lễ hội truyền thống, sự kiện là nơi bộc lộ khả năng sáng tạo của các nghệ nhân Đài Loan.


Chương trình năm 2018 bao gồm nhiều chủ đề khác nhau. Khu vực lồng đèn nước sẽ diễn ra chương trình nhạc nước theo tiêu chuẩn quốc tế để mô tả lại quang cảnh tuyệt đẹp của núi A Lý (Alishan), kiến trúc của Bảo tàng Quốc gia Đài Loan… Lồng đèn đất là nơi tôn vinh những tác phẩm nghệ thuật thủ công truyền thống của các nghệ nhân địa phương; trong khi lồng đèn không khí sẽ được ứng dụng công nghệ, vật liệu và kỹ thuật mới.


Lễ hội pháo hoa Tổ ong Diêm Thuỷ (Yanshui Beehive Fireworks) được tổ chức tại làng Diêm Thuỷ, Đài Nam. Theo Tổng cục du lịch Đài Loan, đây là lễ hội dân gian lớn thứ 3 thế giới, đồng thời là một trong những lễ hội tôn giáo tiêu biểu của Đài Loan.


Hàng năm vào dịp Tết Nguyên đán, không khí tại làng Diêm Thuỷ vô cùng náo nhiệt. Người dân tin rằng càng nhiều tia lửa pháo hoa chạm vào người, những khó khăn xui xẻo sẽ tan biến và nhận càng nhiều may mắn, tài lộc trong năm mới. Chính vì vậy, lễ hội đã thu hút rất nhiều dân địa phương và khách du lịch từ khắp nơi đổ về.


Lễ hội văn hóa Bảo Sinh, một trong những lễ hội tôn giáo dân gian của Đài Loan, diễn ra trong khoảng ngày 1/4 đến 27/5 hàng năm. Chương trình gồm một chuỗi hoạt động thờ cúng, các tiết mục biểu diễn nghệ thuật truyền thống… thu hút nhiều du khách nước ngoài tham gia. Đền Bảo An Đại Long (Dalongdong Baoan) từng lọt vào danh sách Bảo tồn Di sản Văn hóa của UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương vào năm 2003.


Lễ hội đua thuyền rồng Lộc Cảng (Lukang) thường diễn ra vào nửa cuối tháng 5 - nửa đầu tháng 6 là dịp để người dân quảng bá di tích lịch sử, văn hóa, đồ thủ công mỹ nghệ, ẩm thực địa phương… đến du khách. Xuất hiện từ năm 1978, lễ hội này ngày càng được chú trọng và mở rộng quy mô. Đến năm 2006, đua thuyền rồng Lộc Cảng đã được đưa vào danh sách “12 lễ hội quan trọng ở Đài Loan”.


Nếu có dịp đến với vùng đất Tân Trúc (Hsinchu) vào tháng 8 (tức khoảng tháng 7 Âm lịch), bạn có thể dành thời gian tham dự lễ hội Nghĩa Dân (Nation Yimin Festival) tại miếu Bảo Trung Nghĩa Dân. Hoạt động truyền thống của lễ hội này gồm nâng các cột đèn lồng, thả đèn lồng trên mặt nước, gánh quang gánh trên vai để đi diễu hành, trả lại những miếng vải đen cho gia đình những người phụ nữ trong làng…


Lễ hội múa sư tử ở Cao Hùng (Kaohsiung) là hoạt động ấn tượng tiếp theo trong danh sách lễ hội văn hóa thú vị ở Đài Loan. Vũ điệu của sư tử, biểu tượng cho sức mạnh, xuất phát từ khoảng thời gian nông nhàn của người dân, từ đó tạo nên nét văn hóa đặc sắc. Bạn có thể chùa Guangji, quận Qianzhen để thưởng thức những màn biểu diễn đặc sắc này.


Những lễ hội truyền thống được lưu giữ tốt biến Đài Loan trở thành điểm đến hấp dẫn đối với những du khách yêu thích du lịch văn hóa. Không dừng lại ở đó, vùng đất này còn nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên ấn tượng, nền ẩm thực phong phú, tính cách người dân thân thiện. Nếu đã có dịp đến với xứ Đài, bạn đừng ngại chia sẻ trải nghiệm đáng nhớ của mình đến với cuộc thi “Taiwan - A Wonderful Journey” tại zing.vn/a-wonderful-taiwan .

Thứ Tư, 13 tháng 12, 2017

Những lễ hội rực rỡ mùa Giáng sinh trên khắp thế giới

Giữa tháng 12, vùng ôn đới đã có tuyết và khắp nơi cây thông Noel được dựng lên lung linh, đầy sắc màu. Tất cả báo hiệu mùa lễ hội cuối năm nhộn nhịp bắt đầu.


Chợ Giáng sinh Christkindlesmarkt được tổ chức hàng năm ở Nuremberg, một thị trấn cổ của nước Đức. Đắm chìm trong không khí lễ hội nhộn nhịp ở quảng trường trung tâm và dạo bước trên những con phố gần đó trong những ngày đông là trải nghiệm bạn nên có ít nhất một lần trong đời. Ảnh: GoEuro.


Trong khi đó, lễ hội Giáng sinh ở Strasbourg (Pháp) lại là một bữa tiệc ẩm thực khổng lồ với rất nhiều món ăn truyền thống: mận, mơ và hoa quả sấy khô ở làng Alsace Farmhouse; bánh quy aplenty ở làng Bredle; hay một ly rượu vang Alsatian… Chương trình thường kết thúc bằng buổi hòa nhạc lấy cảm hứng từ nhạc jazz. Ảnh: fredholidays.


Ở Dyker Heights, Brooklyn, New York (Mỹ), các gia đình đồng loạt trang trí hình nộm ông già Noel hay những chú lính chì cao đến tầng 2 của ngôi nhà, tạo nên khung cảnh lễ hội độc nhất vô nhị. Ảnh: thenypost.


Nếu thích ngắm nhìn ông già Noel trong bộ trang phục đỏ đặc trưng, lễ hội Santacon ở San Francisco (Mỹ) chính xác là nơi bạn cần đến. Từ năm 1994, mỗi mùa Giáng sinh, người dân thành phố cùng diện trang phục ông già Noel và đổ xuống đường. Ảnh: uptownalmanac.


Một điểm đến khác cũng có rất nhiều ông già Noel là lễ hội Santarun (xứ Wales, Anh). Được tổ chức lần đầu vào năm 2001, mọi người cùng mặc trang phục đỏ và bước vào đường chạy marathon dài 7,2 km. Lễ hội này còn trao tặng một giải thưởng thú vị là ông già Noel mặc đẹp nhất, độc nhất. Ảnh: cdn.cnn.


Người dân Quebec (Canada) ăn mừng Giáng sinh bằng cách thiết kế cây thông bằng kim loại tái chế và thắp sáng bởi năng lượng từ xe đạp. Cũng trong dịp này, nhiều người sẽ ùa ra đường để vui chơi, trượt tuyết và thưởng thức món ăn truyền thống của vùng như hạt dẻ nướng, chả giò… Ảnh: pandotrip.


Lễ hội mùa đông ở Hong Kong (Trung Quốc) như bản nhạc đầy màu sắc từ ánh đèn của nhữngs tòa nhà chọc trời, cây thông khổng lồ ở quảng trường Statue… Điểm nhấn ở đây là màn trình chiếu ánh sáng nghệ thuật 3D theo chủ đề Giáng sinh tại Open Piazza với 4 suất chiếu mỗi tối. Ảnh: Kkday.


Philippines là quốc gia có dân số theo đạo Thiên Chúa lớn nhất châu Á, vì thế người dân nơi đây rất coi trọng lễ Giáng sinh. Từ đêm 16 đến 24/12 là thời gian của lễ Simbang Gabi, hay còn gọi bằng cái tên “Đêm nguyện”. Vào lúc đó, các con chiên tập trung trong nhà thờ, thắp nến và cầu nguyện cùng nhau. Ảnh: Khương Nha.

Chủ Nhật, 10 tháng 12, 2017

Tây bắc - lễ hội hoa ban của người thái

Lễ hội hoa Ban hay còn gọi là lễ hội Xên Mường được người Thái ở Tây Bắc tổ chức vào dịp tháng 2 âm lịch, khi hoa ban bắt đầu nở trắng cả núi rừng Tây Bắc. Lễ hội thể hiện tấm lòng tôn kính tri ân của nhân dân tưởng nhớ công lao to lớn của các vị nhân thần tiền bối và cầu cho quốc thái, dân an, bản mường no ấm, quanh năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, gia đình hạnh phúc…


Lễ hội Hoa Ban thể hiện nét văn hóa tâm linh trong đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Thái với tâm nguyện thỉnh bái “Then” – vị thần tối cao trong hàng ngũ thánh thần theo quan niệm của người Thái; thỉnh bái “nàng Ban” – một nữ nhân vật huyền thoại biểu thị cho sự trinh trắng của người thiếu nữ Thái và tình yêu đôi lứa thuỷ chung; thỉnh bái ma trời, ma mường, ma núi, ma sông… phù hộ cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, vạn vật đơm hoa, kết trái, cho lứa đôi hạnh phúc và phù hộ cho cuộc sống của dân bản luôn đầm ấm, yên vui.

Lễ hội hoa Ban là ngày vui của họ hàng, của bản, mường và là dịp cho trai gái gặp gỡ, hò hẹn nhau. Vào ngày 5/2 âm lịch hàng năm lễ hội hoa Ban được tổ chức. Nếu như lễ hội Xên bản (2 năm/ lần) chỉ diễn ra trong phạm vi của bản, mục đích là "cầu thần phù hộ” và cúng "rửa lá, xua đuổi thần trùng”, ít tổ chức các trò vui, thì lễ hội Xên mường (3 năm/ lần) lại được tổ chức rất to, thu hút nhiều người tài giỏi của toàn mường tham gia.


Lễ hội thường được tổ chức ở hang Thẳm Lé gắn với làn điệu khắp chơi hang. Lễ hội gồm 2 phần lễ và hội, phần lễ để cúng thần linh, phần hội để tạo nên những tiếng cười thoải mái nhằm giáo dục con người vươn tới cái tốt đẹp. Toàn bộ phần nghi lễ được thực hiện ở ngoài cửa hang, sau đó thầy mo vái “Then” xin mở cửa hang thì phần hội lúc đó mới được diễn ra cả bên trong và bên ngoài cửa hang.

Sau khi kết thúc phần lễ, bà con dân bản sẽ tiếp tục phần hội với nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như: ném còn, kéo co, đi cà kheo, leo cây, chọi cù, hát đối đáp… Những trò chơi độc đáo đầy ắp tiếng cười hòa lẫn trong âm vang nhộn nhịp của tiếng khắp, tiếng pí, tiếng khèn, tiếng trống chiêng. Các chàng trai vừa khắp vừa giúp các cô gái hái những bông hoa trắng muốt đem về nhà.


Du khách khi đến với lễ hội Hoa Ban, sẽ được hòa mình trong không khí nhộn nhịp giữa tiết trời của mùa xuân vùng cao, cùng say đắm trong tiếng pí, tiếng khèn, câu khắp và rộn ràng trong những vòng xòe nồng say lại càng thêm yêu mảnh đất, yêu con người nơi xứ Mường, để rồi khi chia tay miền Tây Bắc trong lòng lại lưu luyến không muốn rời xa.

Thứ Năm, 7 tháng 12, 2017

Ý nghĩa Lễ hội Kate (Ka tê) của Người Chăm

Katê là lễ hội hàng năm của đồng bào Chăm vào tháng 7 theo lịch Chăm (khoảng tháng 10 dương lịch) để tưởng nhớ các vị thần mà cũng là những anh hùng dân tộc như Pô Klong Garai, Pô Rôme,...được tổ chức trên một không gian rộng lớn (đền tháp, làng, gia đình), trong khoảng thời gian chừng một tháng.

Hình ảnh có liên quan

Lễ hội Katê năm nay được tổ chức từ 14/10 đến 17/10 tại thôn Hữu Đức xã Phước Hữu huyện Ninh Phước - Ninh Thuận. Đây là lễ hội đặc sắc trong hàng chục lễ hội hàng năm của đồng bào Chăm. Là nơi hội tụ những tinh hoa văn hoá, sinh hoạt, tập tục, tín ngưỡng, kỹ thuật, mỹ thuật, tập quán thông qua các đồ cúng tế, y phục, nhạc cụ, những bản thánh ca, ca ngợi các vị vua hiền có công với dân với nước, ca ngợi công việc đồng áng, mùa màng, những vần thơ ca ngợi sự hưng thịnh, sản vật trăm hoa, trăm quả, trăm nghề,…Lễ hội Katê là dịp để các chàng trai tài, gái sắc, phô diễn trước công chúng những điệu nhảy, bài ca, điệu kèn mang một phong cách độc đáo, riêng có của dân tộc Chăm, làm lay động lòng người. Trong âm thanh dìu dặt của kèn Samanai, trong nhịp giật thôi thúc của trống Ginăng đưa những người dự lễ lên đỉnh cao của sự thăng hoa, hoà vào điệu múa của các thiếu nữ Chăm bay khắp cõi trời mơ. Lễ hội Katê chính là giây phút thiêng liêng của người trần thế đánh thức các tháp Chăm cổ kính yên ngủ dưới lớp bụi thời gian bừng dậy, sáng loà, toả ra trăm sắc, ngàn hương, góp phần làm phong phú cho vườn hoa văn hoá đa sắc, đa màu của các dân tộc Việt Nam.


Lễ hội Katê diễn ra theo tình tự các bước đã có truyền thống từ xa xưa, bao gồm lễ rước y trang, lễ mở cửa tháp, lễ tắm tượng thần, lễ mặc y phục cho tượng thần và sau cùng là đại lễ. Lễ hội tại đền tháp do Ban tế lễ là các chức sắc đạo Bàlamôn gồm: Thầy cả sư (Pô Dhia) làm chủ lễ, thầy kéo đàn Kanhi - hay còn gọi là thầy cò ke (Ôn Kadhar), bà bóng (Muk Payâu) dâng lễ và ông từ (Camưnay). Lễ vật dâng cúng gồm: 1 con dê, 3 con gà làm lễ tẩy uế đất tháp, 5 mâm cơm cúng có thịt dê, 1 mâm cơn với muối vừng, 3 ổ bánh gạo và hoa quả.

Lễ rước y trang của nữ thần Pô Nâgar (thần Mẹ xứ sở) diễn ra một ngày trước ngày hội chính. Y phục của Nữ thần Pô Nâgar do người Raglai (một bộ tộc miền thượng) cất giữ. Lý do vì sao mà y trang của Nữ thần Mẹ xứ sở của người Chăm lại do người Raglai giữ hộ thì hiện còn nằm trong các màn sương dày của các truyền thuyết! Đến ngày hội lễ Katê thì người Chăm làm lễ đón y trang do người Raglai chuyển lại và để y trang của Nữ thần Mẹ xứ sở vào một ngôi đền gần tháp. Trước khi rước y trang lên tháp, đoàn người Raglai tập trung đông đủ, ông từ giữ đền dâng cúng lễ vật, gồm: Trứng, rượu, trầu cau và xin phép thần được rước y trang về tháp để làm lễ.

Tiếp theo là lễ mở cửa tháp do một vị cả sư và ông từ trong coi tháp điều hành. Lễ vật gồm có rượu, trứng, trầu cau, nước tắm thần có pha trầm hương,.... Trong không khí trang nghiêm, vị cả sư đọc mấy câu thơ (trong kinh hành lễ): “Chúng con lấy nước từ sông lớn/ Chúng con đội về tháp tắm thần/ Thần là thần của trời đất/ Chúng con lấy những tấm khăn đẹp nhất/ Lau mồ hôi trên mình, tay chân của thần,...”.

Hình ảnh có liên quan

Sau đó ông từ cầm lọ nước tắm thần tạt lên tượng phù điêu thần Siva trên vòm cửa chính cuả tháp. Tiếp đó, thầy kéo đàn Kanhi (tương tự đàn nhị của người Việt) và bà bóng tiến đến trước cửa tháp chính, ngồi bên tượng bò thần Nađin để hát lễ xin mở cửa tháp: “Hãy xông hương trầm bằng lửa thiêng/ Hương trầm của người trần dâng lễ/ Hương trầm bay toả ngát không gian/ Chúng con xin mở cửa tháp cúng thần”.

Bà bóng và ông từ bắt đầu mở cửa tháp trong khói hương trầm nghi ngút và sự chăm chú của mọi người.

Tiếp theo là lễ tắm tượng thần, lễ này được diễn ra bên trong tháp. Lễ tắm tượng thần là một thủ tục linh thiêng, do ông cả sư, thầy cò ke, bà bóng, ông từ và một số tín đồ nhiệt thành thực hiện. Sau khi đọc các đoạn trong kinh hành lễ, ông từ cầm lọ nước tắm vẫy lên pho tượng đá, mọi người có mặt cùng tắm cho thần. Trong khi tắm, những tín đồ nhiệt thành lấy nước trên thân tượng thần bôi lên đầu, lên thân thể mình để cầu tài lộc, sức khoẻ, may mắn,...


Kết quả hình ảnh cho Lễ hội Kate

Sau khi tắm cho tượng thần xong là bắt đầu lễ mặc y phục. Thầy cò ke hát một bài thánh ca, hát đến đâu thì ông từ, bà bóng mặc y phục đến đó. Đầu tiên là mặc váy, rồi đến áo cho tượng thần.

Đại lễ được tiếp theo khi tượng thần đã mặc trên mình bộ xiêm bào lộng lẫy, các lẽ vật dâng cúng được bày ra trước bệ thờ. Chủ trì buổi lễ là vị cả sư, bà bóng bày lễ vật, thầy kéo đàn Kanhi mời các vị thần cùng về dự lễ. Lần lượt thầy cò ke hát mời 30 vị thần, mỗi vị thần thầy hát một bài thánh ca để mời. Thầy cả sư làm phép đọc kinh cầu nguyện xin thần về hưởng lễ và phù hộ độ trì cho muôn dân. Kết thúc đại lễ là màn vũ điệu múa thiêng của bà bóng.

Trong lúc bà bóng đang xuất thần điệu múa thiêng bên trong tháp để kết thúc đại lễ thì bên ngoài bắt đầu mở hội. Những điệu trống Ginăng, kèn Saranai cùng loạt vang lên, cầm nhịp cho các cô gái Chăm trong vũ điệu cuồng nhiệt, say sưa, hấp dẫn, thôi thúc mọi người. Không khí vui nhộn liên tục cho đến khi mặt trời khuất sau các dãy núi,...
Các lễ hội Katê ở các làng Chăm diễn ra một hoặc có khi là vài ngày sau khi kết thúc lễ hội ở các tháp. Ở đây, mấy hôm trước ngày hành lễ Katê làng, dân làng đã quét dọn đền miếu (mỗi làng Chăm thường thờ riêng một vị thần), chuẩn bị sân khấu, bãi chơi để thi dệt thổ cẩm Chăm, thi đội nước, kéo co,…Những năm gần đây còn tổ chức cho thanh niên chơi bóng đá, bóng chuyền, mọi nhà đều sắp xếp, trang hoàng nhà cửa, mua sắm đồ ăn, thức uống...Nếu như lễ hội Katê ở tháp nặng về phần lễ thì Katê làng lại nghiêng về phần hội.


Trong ngày hội Katê làng, sau khi chuẩn bị xong lễ vật, buổi sáng, mọi người làm lễ cúng Katê ở Nhà Làng để cầu mong thần phù hộ cho dân làng bình an, khoẻ mạnh và làm ăn phát đạt. Chủ lễ không phải là chức sắc tôn giáo mà chủ làng (Pô Paley) hoặc già làng có uy tín và tinh thông phong tục tập quán. Khi kết thúc buổi lễ là lúc bắt đầu các trò chơi. Tại làng Mỹ Nghiệp, nơi tập trung hơn 500 thợ dệt thổ cẩm Chăm lành nghề (thị trấn Phước Dân huyện Ninh Phước, Ninh Thuận) trong lễ hội Katê hàng năm, ngoài các trò chơi như, múa quạt, kéo co,...đã diễn ra hội thi dệt thổ cẩm rất sôi nổi.

Khi lễ Katê làng kết thúc thì lễ Katê gia đình mới được bắt đầu. Mỗi gia đình, tuỳ theo điều kiện của mình mà mua sắm các thứ cho ăn mặc như Tết nguyên đán của người Kinh vậy. Khi cúng lễ ở mỗi nhà, mọi người trong gia đình phải có mặt đầy đủ để cầu mong tổ tiên thần linh phù hộ cho con cháu làm ăn phát đạt, tránh được rủi ro, gặp nhiều may mắn,... Đây cũng là dịp ông bà, cha mẹ giáo dục con cháu nhớ ơn công lao sinh thành, giáo dưỡng của ông bà, tổ tiên,... Mọi người sau khi cúng lễ xong thì hưởng lễ hay đi thăm viếng người thân, bạn bè, chúc tụng nhau. Trong lúc đến viếng thăm nhau, ngoài những lời chúc tụng về sức khoẻ, hạnh phúc và công việc, người Chăm hay mời nhau uống rượu, ăn các loại bánh, trái cây,...


Lễ hội Katê là hình thức sinh hoạt lễ hội đặc sắc nhất của đồng bào Chăm, cuốn hút tất cả mọi thành viên trong thôn làng ở tất cả mọi cấp độ, mọi lứa tuổi, không một người nào bị lãng quên, mọi người tham gia với khả năng của mình vào các hoạt động của cộng đồng. Các thiếu nữ Chăm thuộc làu từng động tác, từng phách, từng nhịp, cách trở, gập quạt, cách uốn, nhún, lượn, xoay, đảo,... từ các nghệ nhân, những người cao tuổi trong làng để tạo nên sự uyển chuyển, duyên dáng, nhuần nhuyễn, nhịp nhàng đến khó tin qua các màn múa quạt tập thể làm say lòng người. Khâm phục hơn nữa khi biết họ là những thiếu nữ Chăm bình thường, trước ngày hội Katê chỉ tập họp ôn luyện cùng nhau vài buổi để ra trình diễn! Nếu không phải là cái truyền thống, cái máu thịt, không thể có được sự nhịp nhàng, chính xác đến vậy.

Mặc dầu cộng đồng người Chăm chịu nhiều ảnh hưởng nền văn hoá Ấn Độ song lễ hội Katê lại biểu hiện một lối đi riêng, một thái độ tiếp thu văn hoá gắn với truyền thống văn hóa bản địa. Những người chủ của lễ hội này, của nền văn hoá Chăm, mặc dù trong tâm thức, người ta vẫn thờ cúng thần Siva nhưng cộng đồng người Chăm trên lãnh thổ Việt Nam còn coi trọng, tôn thờ những vị anh hùng dân tộc, kết hợp hài hoà giữa cái xưa và cái nay, cái quá khứ và cái hiện tại. Vì vậy mà các tháp Chăm, nơi hành lễ Katê đều gắn liền tên của một ông vua có nhiều công với thần dân, được mọi người phong thành Thần và tên tháp thờ mang tên ông, như tháp Pô Klong Garai, Pô Rômê, Pô Nưgar,... Đấy chính là một điểm mấu chốt để nền văn hóa Chăm mãi mãi vững bền trước các biến cố lịch sử, biểu hiện sức sống mãnh liệt của văn minh cội nguồn hội nhập với văn hoá Đông Nam Á, làm cho diện mạo của lễ hội Katê thêm phong phú, đa dạng, hợp lòng người, mãi mãi trường tồn.

www.ojo.vn Sưu tầm

Thứ Ba, 5 tháng 12, 2017

ĐÀ NẴNG: LỄ HỘI CẦU NGƯ

Lễ hội Cá Ông (còn được gọi là lễ tế Cá Voi) là lễ hội lớn nhất của ngư dân thành phố Đà Nẵng. Thờ Cá Ông ở đây không chỉ được xem là sự tôn kính thần linh mà còn gắn liền với sự hưng thịnh của cả làng. 'Ông' là tiếng gọi tôn kính của ngư dân dành riêng cho cá voi, loài cá thường giúp họ vượt qua tai nạn khi lênh đênh trên biển cả. Hàng năm, thường là sau khi ăn Tết xong, như dân tổ chức lễ tế cá Ông lồng ghép dưới hình thức Lễ hội Cầu ngư và lễ ra quân đánh bắt vụ cá nam. Tại Đà Nẵng, Lễ hội Cầu ngư được tổ chức ở những vùng ven biển như Mân Thái, Thọ Quang, Thanh Lộc Đán, Xuân Hà, Hòa Hiệp...

Hình ảnh có liên quan

Lễ hội được diễn ra trong hai ngày vào trung tuần tháng 3 âm lịch. Ngày đầu thiết lễ tiên thường, ngày sau là lễ tế chính thức. Trong ngày lễ, bàn thờ được trang hoàng hết sức rực rỡ, trang nghiêm. Các nhà đều đặt bàn hương án bày đồ lễ cúng. Trên mỗi tàu thuyền đều chăng đèn kết hoa. Làng chọn ra một ban nghi lễ gồm các cụ cao niên, hiền đức, có uy tín với bạn chài và không bị mắc tang chế. Vị chánh bái dâng đồ tế lễ (không được dùng hải sản) và đọc văn tế nói lên lòng biết ơn của dân làng đối với công đức Cá Ông và cầu mong mùa đánh bắt bội thu, thuyền bè đi khơi về lộng an toàn.


Rạng sáng ngày hôm sau, dân làng đánh trống làm lễ rước trên biển. Có nơi còn tổ chức lễ rước Ông từ làng này qua làng khác để bày tỏ sự đoàn kết giữa các vạn chài. Tất cả tàu thuyền ra khơi đến một vị trí đã định trước và vị chánh tế tổ chức “xin keo”. Đó là lễ Cá Ông chứng dám lòng thành của ngư dân ngoài biển. Vào nửa đêm hôm đó, dân làng làm lễ chánh tế bao gồm lễ khai mõ, đội học trò dâng hương. Về phần hội, tuỳ điều kiện, mỗi địa phương có một hình thức tổ chức riêng, nhưng cũng đều là các trò chơi dân gian vùng biển: lắc thúng, đua thuyền, bơi lội, kéo co, đá bóng... Về văn nghệ, ngoài hát tuồng, hát hò khoan, còn có một hình thức múa hát đặc trưng của Lễ hội Cầu ngư là múa hát bả trạo (bả: nắm, trạo: chèo đò) diễn tả tinh thần đoàn kết giữa các thành viên trong một con thuyền, vượt qua sóng to gió cả, mang về một mùa bội thu cho ngư dân.

Lễ hội Cầu ngư bày tỏ khát vọng được bình yên trong cuộc sống của ngư dân, những con người luôn phải đối mặt với nhiều bất trắc khi lênh đênh trên biển cả.

Hình ảnh có liên quan

Theo Danang.gov.vn